Hà Nội: Khuyến khích nông dân phát triển kinh tế trang trại liên kết
Trong tương lai, Thủ đô sẽ tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế trang trại liên kết, ứng dụng công nghệ cao.
Nâng cao thu nhập cho người nông dân
Mô hình kinh tế trang trại trong sản xuất nông nghiệp tại Thủ đô Hà Nội đã hình thành từ lâu và không ngừng được mở rộng, phát triển.
Sự phát triển kinh tế trang trại, nhất là kinh tế trang trại liên kết, ứng dụng công nghệ cao đã và đang góp phần giúp người dân phát huy được lợi thế so sánh, mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp hàng hóa, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Việc phát triển kinh tế trang trại ứng dụng công nghệ cao không chỉ giúp khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững; tạo việc làm, tăng thu nhập; mà còn khuyến khích làm giàu đi đôi với xóa đói giảm nghèo; phân bổ lại lao động, dân cư, xây dựng nông thôn mới tại Thủ đô.
Theo Chi cục Phát triển nông thôn Hà Nội, hiện Thành phố có hơn 1.700 trang trại đạt chuẩn; trong đó 277 trang trại đã liên kết phát triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Còn theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, hiện có 243 trang trại ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất. Hoạt động liên kết theo chuỗi giá trị hàng hóa của các trang trại bước đầu được hình thành và phát triển.
Trong số những trang trại đã liên kết phát triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm tiêu biểu trên địa bàn Thủ đô phải kể tới trang trại chăn nuôi trâu bò của lão nông Trần Văn Khánh (Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội) . Hiện trang trại đang nuôi khoảng 300 con bò. Vốn đầu tư khoảng 11 – 14 tỷ đồng. Nếu chăn nuôi thuận lợi, mỗi năm sẽ được lãi thuần 2-2,5 tỷ đồng, tương ứng bình quân nuôi 1 con trâu, bò cho lãi từ 0,8-1,3 triệu đồng/tháng.
Trong khi đó, Trang trại chăn nuôi của gia đình ông Nguyễn Văn Hanh, xã Phúc Lâm (huyện Mỹ Đức, Hà Nội) quy mô 1ha, tổng vốn đầu tư 10 tỷ đồng, doanh thu đạt 19 tỷ đồng/năm, sản phẩm chủ yếu là lợn giống, lợn thương phẩm.
Tại xã Cấn Hữu, huyện Quốc Oai, Hà Nội, mô hình trang trại tổng hợp của gia đình ông Nguyễn Văn Lâm có quy mô 1,3ha, tổng vốn đầu tư 11 tỷ đồng, doanh thu đạt 20 tỷ đồng/năm, sản phẩm chủ yếu là lợn, gà đẻ trứng, cá, bưởi.
Trang trại nuôi trồng thủy sản của gia đình ông Nguyễn Đình Viện ở xã Thư Phú (huyện Thường Tín) quy mô 11ha, tổng vốn đầu tư 25 tỷ đồng, doanh thu đạt 7,5 tỷ đồng/năm, sản phẩm chủ yếu là cá, nhãn...
Việc xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản trên địa bàn Thủ đô và liên kết, hợp tác với các tỉnh vừa giúp thành phố đáp ứng nguồn cung lương thực, thực phẩm cho hơn 10 triệu dân vừa khẳng định vai trò đầu tàu trong mở rộng, phát triển chuỗi sản xuất, tiêu thụ một cách bền vững.
Kinh tế trang trại là thành tố quan trọng trong phát triển kinh tế tại khu vực nông thôn Hà Nội. Việc phát triển kinh tế trang trại đã khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, nguồn vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững. Đặc biệt là tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho một bộ phận lao động nông thôn.
Mục tiêu đến năm 2025 có từ 2.000 trang trại trở lên
Theo tính toán, doanh thu bình quân của một trang trại hiện nay đạt trên 2 tỷ đồng/năm. Các loại hình trang trại phát triển đã góp phần quan trọng tạo việc làm cho người lao động nông thôn. Cùng với việc giải quyết việc làm, kinh tế trang trại đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển chung của nền kinh tế Hà Nội...
Trao đổi với Báo đầu tư, Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn Hà Nội Nguyễn Văn Chí cho biết, trong định hướng phát triển trang trại, Thành phố Hà Nội chú trọng nhân rộng những trang trại ứng dụng công nghệ cao. Riêng lĩnh vực chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, sẽ tập trung hình thành và phát triển những trại giống quy mô lớn để cung ứng cho các tỉnh, thành.
Cùng với đó, Thành phố sẽ khuyến khích phát triển những trang trại tập trung, xa khu dân cư và đẩy mạnh lĩnh vực giết mổ, sơ chế, chế biến, đóng gói. Đặc biệt là xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu cho nông sản. Đồng thời, phối hợp với các sở ngành phát triển chuỗi liên kết từ nông trại đến bàn ăn, tiến tới chuyên nghiệp hóa chuỗi giá trị sản phẩm trang trại tại Hà Nội.
Để phát triển mô hình kinh tế trang trại liên kết, trang trại ứng dụng công nghệ cao, trong giai đoạn 2016 - 2020, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đã chỉ đạo các đơn vị chuyên môn phối hợp với các quận, huyện, thị xã xây dựng mô hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật.
Đồng thời tổ chức tập huấn về kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, bảo quản chế biến và cung cấp thông tin thị trường, đào tạo quản lý từ chương trình khuyến nông, chương trình đào tạo nghề. Từ đó góp phần giúp các chủ trang trại ứng dụng vào sản xuất đạt hiệu quả.
Đặc biệt, các quỹ hỗ trợ nông dân và quỹ khuyến nông cũng tạo điều kiện cho các trang trại tiếp cận nguồn vốn vay hiệu quả. Các chính sách về thuế, đầu tư, tín dụng, lao động, khoa học, công nghệ, môi trường, thị trường… đi vào cuộc sống cũng tạo điều kiện giúp các trang trại ổn định phát triển, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông thôn.
Nhiều trang trại đã sản xuất và cung ứng giống tốt, làm dịch vụ, kỹ thuật, tiêu thụ sản xuất cho nông dân, tạo nguồn cung ổn định cho các cơ sở chế biến, tạo thêm nhiều sản phẩm chất lượng cao để phục vụ nhu cầu tiêu dùng trên địa bàn Thủ đô và xuất khẩu.
Nông nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng giảm loại hình trồng trọt, tăng loại hình chăn nuôi và tổng hợp, bức tranh phát triển kinh tế trang trại của Hà Nội vì thế mà có nhiều đổi thay theo hướng tích cực.
Thời gian tới, Hà Nội sẽ tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn Thành phố, nâng cao vai trò của kinh tế tập thể... Mục tiêu trong giai đoạn 2021 – 2025 là phấn đấu có từ 2.000 trang trại trở lên, số lao động làm việc trong các trang trại là gần 8.000 người, đạt tiêu chí theo Thông tư số 02/2020/TT-BNNPTNT ngày 28/2/2020 của Bộ NN-PTNT quy định tiêu chí về kinh tế trang trại.
Đồng thời, tỷ lệ giá trị sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của trang trại đạt trên 70%.
Hướng đến nền nông nghiệp hiện đại, bền vững
Qua đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, công nghệ cao, tiên tiến đã và đang được ứng dụng trong từng khâu hoặc trong cả chuỗi sản xuất để mang lại giá trị gia tăng cao cho sản phẩm nông nghiệp, thúc đẩy xây dựng các vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã chủ động tiếp cận, nhập khẩu làm chủ các công nghệ mới, ứng dụng công nghệ tự động, bán tự động, công nghệ thông tin để mang lại hiệu quả kinh tế cao cho sản xuất nông nghiệp. Điển hình như với cây rau doanh thu đạt từ 2,5 đến 9 tỷ đồng/ha/năm, lợi nhuận từ 1,6 đến 4,9 tỷ đồng/ha/năm; cây hoa thu nhập từ 0,5 đến 9,9 tỷ đồng/ha/năm, lợi nhuận từ 0,3 đến 5,4 tỷ đồng/ha/năm...
Mặc dù vậy, sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cũng gặp những khó khăn do việc ứng dụng chủ yếu tập trung tại một số vùng, những nơi sản phẩm có thế mạnh và một số doanh nghiệp lớn; các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao mới thành lập chưa đủ tiềm lực để nghiên cứu khoa học - công nghệ; các tổ chức sự nghiệp khoa học công lập chưa tạo ra nhiều sản phẩm, công nghệ có thể chuyển giao vào sản xuất nông nghiệp. Chưa có nhiều công nghệ cao được các Viện, Trường làm chủ, hầu hết nhập khẩu từ nước ngoài.
Các mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, phân bố không đồng đều, quy mô sản xuất chưa đủ lớn để tạo vùng hàng hóa tập trung gây khó khăn trong việc đầu tư và quản lý; việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng của tổ chức, cá nhân vẫn gặp nhiều khó khăn...
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các địa phương cần hạn chế việc xây dựng khu ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao tràn lan, phong trào, không tạo được tính đột phá, thúc đẩy sản xuất lớn, năng suất và chất lượng cao theo quy mô vùng miền, gây lãng phí nguồn lực. Hơn nữa, nguồn vốn đối với nông nghiệp công nghệ cao rất quan trọng, vì vậy rất cần các chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh nông nghiệp công nghệ cao tiếp cận được.
Các địa phương cần xây dựng cơ chế chính sách phù hợp, đặc thù khuyến khích người dân, doanh nghiệp đầu tư vốn để sản xuất, kinh doanh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; có chế tài đủ mạnh nhằm bảo đảm sự tuân thủ quy hoạch cho phát triển mô hình này, phù hợp với quy hoạch chung của quốc gia, vùng, quy hoạch tỉnh, ổn định và bền vững; có chính sách khuyến khích nhập khẩu, tiếp nhận chuyển giao làm chủ các công nghệ mới, công nghệ tiên tiến từ nước ngoài.
Hương Anh (tổng hợp)