Chánh án TAND Tối cao: Giá đất phải phù hợp với thị trường thì chỉ lên không giảm

Ủng hộ quan điểm xây dựng bảng giá đất và hệ số điều chỉnh giá đất, Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Văn Quảng cho rằng, nếu tiếp cận theo cách giá đất phải phù hợp với thị trường thì giá đất chỉ lên, không thể giữ hoặc giảm.

Quốc hội thảo luận tại tổ Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai sáng 19/11. Vấn đề thu hồi đất, giá đất được các đại biểu quan tâm góp ý.

Có người dân nào đồng ý thu hồi đất trước khi biết phương án bồi thường?

Dự thảo nghị quyết đề xuất bổ sung thêm một số trường hợp Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế, xã hội.

Đại biểu Quốc hội Phạm Đức Ấn, Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng cho rằng cách “liệt kê” các trường hợp Nhà nước thu hồi đất sẽ “vẫn chưa đầy đủ”. Theo ông, cần giao cho Chính phủ thêm quyền lựa chọn các dự án ngoài các trường hợp theo nghị quyết này để triển khai.

Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Văn Quảng cho rằng "tiếp cận theo cách giá đất phải phù hợp với thị trường, thì giá đất chỉ có đẩy lên thôi, làm gì có chuyện thị trường giữ hoặc giảm xuống", Ảnh: P.Thắng

Thống nhất bổ sung thêm các trường hợp Nhà nước thu hồi đất, Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Văn Quảng thấy “không phù hợp” vì thẩm quyền quyết định vẫn là Quốc hội.

Theo ông, với yêu cầu phát triển như hiện nay lại sẽ phát sinh các trường hợp thu hồi đất khác mà bây giờ chưa lường được.

Vì vậy, ông đề nghị, trong nghị quyết lần này nên giao thẩm quyền quyết định các trường hợp Nhà nước thu hồi đất cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội để linh hoạt hơn, nếu không “chúng ta luôn luôn là người đi sau thực tiễn”.

Nhấn mạnh các quy định trong nghị quyết phải bảo đảm tính khả thi, Chánh án TAND Tối cao đề cập đến quy định “với dự án khác, nếu được trên 75% người sử dụng đất đồng ý thu hồi đất trước khi phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì được thu hồi đất”.

Ông đề nghị phải cân nhắc rất kỹ tính khả thi tính về tỷ lệ trên 75% và "trên thực tế có người dân nào đồng ý cho thu hồi đất trước khi phê duyệt phương án bồi thường?".

“Tâm lý chung, người dân bị thu hồi đất bao giờ cũng phải xem Nhà nước có phương án bồi thường như thế nào để xem quyền lợi của mình có được đảm bảo. Họ biết phương án Nhà nước thu hồi bồi thường ra sao, lúc đấy người ta mới đồng ý hay không”, Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Văn Quảng nói và nhận định “tính khả thi của quy định này không cao”.

Liên quan đến thẩm quyền thu hồi đất (Điều 3, dự thảo nghị quyết), ông Quảng thấy có hai điểm không thống nhất.

Theo ông, ở khoản 4 điều này dự thảo nghị quyết quy định UBND cấp tỉnh quy định việc bố trí tạm cư, thời gian và kinh phí tạm cư với trường hợp quyết định thu hồi đất khi mà chưa có phương án bố trí tái định cư.

“Khi chưa có phương án tái định cư cho người dân, chúng ta phải đảm bảo quyền có nhà ở, quyền có nơi ở cho công dân theo quy định của Hiến pháp”, Chánh án Nguyễn Văn Quảng nói.

Trong khi đó, khoản 5 Điều 3 quy định Chủ tịch UBND cấp xã quyết định việc thu hồi đất theo tiến độ của dự án đầu tư hoặc theo tiến độ bồi thường, hỗ trợ tái định cư.

“Người quyết định thu hồi đất bao giờ cũng gắn với phương án đảm bảo chỗ ở cho người bị thu hồi đất. Tôi cho rằng phải để cho UBND cấp xã quyền quyết định ông A và bà B sẽ được tạm cư, thời gian tạm cư, kinh phí tạm cư thì mới gắn với việc đảm bảo thu hồi đất”, ông Quảng nêu quan điểm.

Theo ông, cấp tỉnh quyết định bố trí tạm cư, còn cấp xã lại đi thu hồi đất sẽ xảy ra tình trạng “đùn đẩy, né tránh trách nhiệm”. Để bảo đảm tính đồng bộ, Chánh án đề nghị “người ra quyết định việc thu hồi đất thì có thẩm quyền quyết định việc tạm cư”.

Song ở thời điểm hiện nay, với năng lực của cấp xã nếu thực hiện sẽ “rất khó khăn”, nên Chánh án TAND Tối cao cho rằng, trước mắt giao UBND các tỉnh quyết định, sau đó Chủ tịch UBND tỉnh sẽ quyết có phân cấp xuống cho Chủ tịch UBND cấp xã hay không, để đảm bảo tính linh hoạt và khả thi trong thực tiễn.

Giá đất không kiểm soát được nó dẫn đến hệ lụy rất lớn cho nền kinh tế

Về căn cứ xác định giá đất, Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Văn Quảng nhấn mạnh, “đây là vấn đề rất lớn”.

“Trước đây, chúng ta đưa ra 3-4 phương pháp xác định giá đất và hiện gặp rất nhiều vướng mắc khi áp dụng. Khi sửa Luật Đất đai, câu chuyện này được bàn rất nhiều. Lần này, chúng ta đi đến thống nhất quan điểm, đó là căn cứ xác định giá đất khi bồi thường, hỗ trợ tái định cư lấy bảng giá đất nhân với hệ số”, theo lời ông Quảng.

Ông nhận định, việc thay đổi cách tiếp cận này sẽ kiểm soát được giá đất, không để tình trạng “thổi giá” như hiện nay.

“Chúng ta mà tiếp cận theo cách giá đất phải phù hợp với thị trường, thì giá đất chỉ có đẩy lên thôi, làm gì có chuyện thị trường giữ hoặc giảm xuống”, Chánh án TAND Tối cao phát biểu.

Tuy nhiên, ông Quảng đề nghị việc hướng dẫn để áp dụng quy định này phải rất chi tiết, cụ thể, bởi địa phương đang rất băn khoăn vấn đề này.

“Giá đất không kiểm soát được nó dẫn đến hệ lụy rất lớn cho nền kinh tế”, theo nhận định của Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Phạm Đức Ấn. Ảnh: P.Thắng

Đại biểu Quốc hội Phạm Đức Ấn, Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng nhấn mạnh việc ban hành nghị quyết đưa ra một số cơ chế chính sách để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thi hành Luật Đất đai là nội dung rất quan trọng.

“Luật mới ban hành nhưng nếu không điều chỉnh sẽ gây ách tắc”, ông Ấn nói.

Đề cập giá đất, Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng nêu, theo quy định của Luật Đất đai phải có tư vấn để xác định từng mảnh đất cụ thể, dẫn đến chậm trễ, “không thể triển khai nổi”, ảnh hưởng đến giải phóng mặt bằng.

Song ông Ấn đặt vấn đề, giờ đưa ra bảng giá đất liệu có giải quyết triệt để được vấn đề liên quan đến đền bù, giải phóng mặt bằng hay không?

“Theo tôi chưa thể giải quyết triệt để được”, ông Ấn nói. Bởi theo ông, giá đất tăng liên tục dẫn đến người dân kỳ vọng “rồi sẽ tăng” tiếp, người thu hồi đất sau lợi hơn người trước.

“Giá đất không kiểm soát được nó dẫn đến hệ lụy rất lớn cho nền kinh tế”, theo nhận định của Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng.

Ông phân tích, nếu Nhà nước định giá đất không sát với thị trường, khi đền bù người dân thấy thiệt thòi nên không chủ động bàn giao đất để giải phóng mặt bằng, rồi họ sẽ khiếu nại, khiếu kiện.

“Đây là bài toán rất đau đầu”, ông Ấn nói và cho rằng, cùng với xây dựng bảng giá đất, phải có những điều tiết thông qua cơ chế thuế để kiểm soát giá bất động sản ở mức ổn định nhất định. Có như vậy, mới giải quyết được bài toán để người dân bị thu hồi đất không kỳ vọng là “mình bị thu hồi sau có lợi hơn người thu hồi trước”.