Làm rõ thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo về Bảo hiểm xã hội
Nghị định 274/2025/NĐ-CP của Chính phủ, có hiệu lực từ ngày 30/11/2025, quy định chi tiết các điều khoản quan trọng của Luật Bảo hiểm xã hội liên quan đến chậm đóng, trốn đóng và đặc biệt là phân định rõ thẩm quyền cũng như quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm thất nghiệp, cung cấp cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động.

Việc ban hành Nghị định 274/2025/NĐ-CP giúp thống nhất quy trình, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội. Ảnh minh họa: Dương Nguyễn
Nghị định 274/2025/NĐ-CP ban hành nhằm chi tiết hóa một số nội dung của Luật Bảo hiểm xã hội về các hành vi chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, cùng với các quy định về khiếu nại và tố cáo về bảo hiểm xã hội. Đối tượng áp dụng của Nghị định bao gồm người lao động, người sử dụng lao động, và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc đóng, khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội theo quy định.
Điều 8 của Nghị định quy định chi tiết về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi về bảo hiểm xã hội. Cụ thể, cơ quan bảo hiểm xã hội có thẩm quyền quản lý trực tiếp sẽ là cơ quan giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định, hành vi của chính mình.
Nếu người khiếu nại không đồng ý với kết quả giải quyết lần đầu hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết, họ có quyền khiếu nại lần hai đến cơ quan bảo hiểm xã hội cấp trên trực tiếp. Tuy nhiên, trường hợp người khiếu nại vẫn không đồng ý với kết quả giải quyết, họ có quyền khởi kiện tại Tòa án theo pháp luật.
Đối với các trường hợp liên quan đến việc thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội hoặc thời gian công tác trong khu vực Nhà nước trước ngày 1/1/1995 mà không đủ hồ sơ gốc, người lao động phải trực tiếp liên hệ với cơ quan bảo hiểm xã hội cấp tỉnh để giải quyết lần đầu và nếu không đồng ý với kết quả giải quyết lần đầu này hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết, họ có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc khởi kiện Tòa án.
Nghị định cũng nhấn mạnh trách nhiệm của người có thẩm quyền trong việc công khai quyết định giải quyết khiếu nại. Điều 10 quy định trong thời hạn 15 ngày, kể từ khi có quyết định giải quyết khiếu nại, cơ quan có thẩm quyền phải công khai quyết định đó thông qua các hình thức như: Công bố tại cuộc họp nội bộ, niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân ít nhất 15 ngày liên tục, hoặc thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Về việc thi hành quyết định tại Điều 11, người giải quyết khiếu nại có trách nhiệm thực hiện các biện pháp để buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm thi hành quyết định khiếu nại có hiệu lực pháp luật chậm nhất 5 ngày làm việc kể từ ngày quyết định có hiệu lực.
Người giải quyết khiếu nại cũng có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra việc thi hành và phải báo cáo kết quả thực hiện với người khiếu nại. Ngược lại, người khiếu nại có trách nhiệm tổ chức thi hành, chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật và hợp tác với cơ quan có thẩm quyền để khôi phục quyền lợi ích hợp pháp của mình và của người liên quan…
Đối với tố cáo, Nghị định phân định rõ thẩm quyền tại Mục 2, Chương III. Điều 12 quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ về bảo hiểm xã hội của cán bộ, công chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan bảo hiểm xã hội có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết.
Trường hợp tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người đứng đầu cơ quan bảo hiểm xã hội cấp dưới trực tiếp, người đứng đầu cơ quan bảo hiểm xã hội cấp trên trực tiếp sẽ giải quyết. Nếu người bị tố cáo là cán bộ, công chức đã chuyển công tác, thẩm quyền giải quyết tố cáo thuộc về người đứng đầu cơ quan đang quản lý người đó, phối hợp với cơ quan, tổ chức đã chuyển công tác.
Đối với tố cáo nhằm vào cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức bị tố cáo sẽ giải quyết.
Một điểm đáng lưu ý là trách nhiệm giải quyết tố cáo còn thuộc về Chủ tịch UBND cấp tỉnh đối với hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành quy định về bảo hiểm xã hội xảy ra trước năm 1995.
Cụ thể, căn cứ vào nội dung và tính chất của hành vi vi phạm pháp luật trong việc chấp hành quy định về bảo hiểm xã hội xảy ra trước năm 1995 bị tố cáo, Chủ tịch UBND cấp tỉnh sẽ giao Thanh tra tỉnh hoặc cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh chủ trì. Các cơ quan này có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan để tham mưu, giúp Chủ tịch UBND tỉnh giải quyết tố cáo.
Có thể khẳng định, Nghị định 274/2025/NĐ-CP đóng vai trò là cơ sở pháp lý vững chắc, chi tiết hóa các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội về các hành vi chậm đóng, trốn đóng, đồng thời làm rõ thẩm quyền và quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội. Nghị định không chỉ nâng cao tính tuân thủ pháp luật mà còn là công cụ pháp lý quan trọng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội.




In bài viết
