Vị trí 40 mỏ vàng tổng trữ lượng gần 30 tấn
40 mỏ vàng với tổng trữ lượng gần 30 tấn được phát hiện ở rải rác các tỉnh Tây Bắc, trong đó Tuyên Quang và Bắc Kạn là 2 địa phương nhiều mỏ nhất.
Quá trình điều tra tổng thể về khoáng sản và hoàn thiện nền bản đồ địa chất tỷ lệ 1/50.000 vùng Tây Bắc, Cục Địa chất và Khoáng sản (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã phát hiện 40 mỏ vàng.
Theo đại diện Cục Địa chất và Khoáng sản, Đề án Tây Bắc đã phát hiện và điều tra, đánh giá tiềm năng 110 mỏ thuộc 25 loại khoáng sản gồm: nhóm khoáng sản nhiên liệu, năng lượng: than đá, địa nhiệt; nhóm kim loại: sắt - mangan, bauxit, đất hiếm, đồng - nickel, thiếc - wofram, vàng, antimon; khoáng chất công nghiệp: apatit, graphit, talc, kaolin, felspat, barit, dolomit, thạch anh, quarzit, đá vôi công nghiệp; khoáng sản làm VLXD: đá vôi ốp lát, đá mỹ nghệ, đá phiến lợp.
Trong số đó có 17 mỏ lớn (5 mỏ khoáng sản kim loại, 10 mỏ khoáng chất công nghiệp, 2 mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng), 43 mỏ trung bình và 50 mỏ nhỏ.
Quá trình khai thác, thăm dò khoáng sản khi thực hiện Đề án Tây Bắc. Ảnh: Cục Địa chất và Khoáng sản cung cấp.
Đánh giá khoáng sản kim loại được tiến hành tại 10 đề án thành phần thuộc Đề án Tây Bắc, gồm các loại khoáng sản gồm: sắt, mangan, đất hiếm, đồng - nickel, thiếc - wofram, vàng, antimon. Các khoáng sản kim loại khác (chì - kẽm, bauxit, titan,…) không tiến hành điều tra, đánh giá do đã thực hiện tại các đề án khác trước đó.
Kết quả, đã phát hiện mới và điều tra, đánh giá tiềm năng 65 mỏ có quy mô khác nhau, xác định được tài nguyên cấp 333. Trong đó có 5 mỏ lớn, 24 mỏ trung bình, 36 mỏ nhỏ.
Riêng về vàng, đề án đã phát hiện và đánh giá tiềm năng 40 mỏ (14 mỏ trung bình, 26 mỏ nhỏ), phân bố tại các tỉnh: Điện Biên (1), Lai Châu (5), Hà Giang (Yên Bái) (2), Cao Bằng (3), Tuyên Quang (8), Lạng Sơn (3), Bắc Kạn (8), Sơn La (2), Thanh Hóa (4), Nghệ An (4).Tổng tài nguyên cấp 333 xác định được hơn 29,8 tấn vàng. Khoáng sản đi kèm có bạc, đồng, antimon.
Theo đó, 2 địa phương phát hiện nhiều mỏ vàng nhất là Tuyên Quang (8 mỏ) và Bắc Kạn (8 mỏ). Tại Tuyên Quang, các nhà nghiên cứu địa chất khoáng sản phát hiện các thân quặng vàng phân bố trong khu vực điều tra nằm dọc theo các khe nứt, có mức độ bóc mòn chưa đáng kể... Tài liệu địa vật lý đã dự kiến được các đới khoáng hóa tồn tại đến độ sâu 500m. Trong lỗ khoan đã gặp đới khoáng hóa chứa vàng ở độ sâu 220m. Khu vực này có khả năng tồn tại các thân quặng ở dưới sâu, cần được điều tra, đánh giá tiếp theo.
Tại Bắc Kạn, khu vực Thuần Mang - Kim Hỷ thuộc địa phận xã Thượng Quan và Đức Vân, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn có 2 dải quặng hóa vàng Nà Pò và Khuổi Po gồm 6 đới khoáng hóa, trong đó chứa 16 thân quặng và 7 thân khoáng vàng. Một số lỗ khoan đã bắt gặp quặng tại 140m theo hướng cắm của thân quặng. Khu vực này có khả năng phát hiện các thân quặng dưới sâu, quặng ẩn, đến độ sâu 200-250m theo hướng cắm hoặc sâu hơn.
Hình ảnh vàng được phát hiện trong quá trình thực hiện Đề án Tây Bắc. Ảnh: Cục Địa chất và Khoáng sản cung cấp.
Ông Trần Bình Trọng, Cục trưởng Cục Địa chất và Khoáng sản cho biết, năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Tây Bắc. Đây là một trong những đề án điều tra địa chất cơ bản lớn nhất cả nước, có quy mô rộng, đối tượng đa dạng, thời gian thực hiện kéo dài gần 8 năm.
Kết thúc vào năm 2024, Đề án Tây Bắc đã hoàn thành toàn bộ khối lượng được giao. Nổi bật là các đơn vị thực hiện Đề án đã lập bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 trên 13.081 km²; thực hiện 498 lỗ khoan với tổng chiều sâu hơn 46.000 mét, trong đó 90% lỗ khoan gặp thân quặng – một tỉ lệ rất cao.
Một thành tựu quan trọng của Đề án là đã phát hiện và đánh giá 110 mỏ khoáng sản, gồm 25 loại khác nhau như đất hiếm, thiếc-wolfram, vàng, đồng, antimon, đá mỹ nghệ, đá vôi công nghiệp… Trong đó có 17 mỏ quy mô lớn, 43 mỏ trung bình và 50 mỏ nhỏ - vượt gấp đôi mục tiêu ban đầu.
Ngoài ra, Đề án cũng đã khoanh định 7 khu vực có triển vọng khoáng sản ẩn sâu, dự báo 15 diện tích phân bố đá magma có tiềm năng khoáng sản chiến lược; điều tra chi tiết 3 khu vực địa nhiệt ở Điện Biên, Lai Châu và Sơn La; phát hiện các di chỉ địa chất và cảnh quan địa mạo có giá trị.
Đặc biệt, Đề án đã hoàn thành bản đồ địa chất - khoáng sản tỷ lệ 1:250.000 toàn khu vực Bắc Bộ và tỉnh Nghệ An, thu thập 14 bộ mẫu vật điển hình và bàn giao cho các tỉnh sử dụng.